A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là ngành giáo dục hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Đến trường trẻ được học, được chơi, được tiếp xúc với nhiều bạn, được sống trong tình thương của cô giáo, được khám phá thế giới bí ẩn xung quanh, biết cách sống tự lập cao. Nhờ quá trình giáo dục giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẫm mĩ, tâm lí, tình cảm .
Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng, rất non nớt, rất trong sáng và rất dễ tiếp thu những cái tốt cũng như những cái xấu từ bên ngoài. Nếu như chúng ta không biết cách uốn nắn và dạy dỗ trẻ đúng cách thì sẽ gây khó khăn cho các bậc học sau.
Chính vì vậy mà người lớn chúng ta cần phải rèn luyện những thói quen tốt cho trẻ ngay từ nhỏ. Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con. Và cũng không ít trẻ mầm non vì quá được cưng chiều, cha mẹ làm thay hết mọi việc nên trẻ có thói quen ỷ lại và chỉ biết trông chờ người khác phục vụ. Thiếu kỹ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến trẻ lười biếng, thụ động và sẽ gặp khó khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể. Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự phục vụ nói riêng là vô cùng cần thiết đối với trẻ mầm non. Như ông bà xưa thường nói “ dạy trẻ từ thưở lên ba”
Nếu các con không có kĩ năng tự phục vụ bản thân, các con sẽ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống hiện đại.
Nếu trẻ biết tự phục vụ bản thân , trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần, từ đó sẽ xây dựng những kỹ năng sống hòa nhập với môi trường xung quanh. Ở mỗi lứa tuổi, trẻ rất cần những tác động khác nhau đến kỹ năng sống của trẻ. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện, là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ.
Chính vì vậy, tôi luôn quan tâm đến những biện pháp dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ của trẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi tôi đang giảng dạy 3 - 4 tuổi.Theo nghiên cứu thì trẻ ở lứa tuổi này não bộ vẫn rất dễ dàng tiếp thu và thay đổi, đặc biệt là trong những tình huống kích thích cảm xúc của bé và sau khi trẻ chơi những trò chơi đòi hỏi sự hoạt động cơ thể. Vì thế những kinh nghiệm tích cực mà trẻ thu được trong thời kỳ này rất quan trọng đối với sự phát triển kỹ năng lâu dài và toàn diện của trẻ. Nó giúp trẻ hình thành những thói quen tốt ngay từ nhỏ, trẻ có sự chủ động trong cuộc sống sau này. Là giáo viên mầm non, làm thế nào để giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi đạt hiệu quả tốt nhất là vấn đề khiến bản thân tôi hết sức bản khăn trăn trở.
Qua việc tìm tòi, nhận thức sâu sắc ý nghĩa vai trò quan trọng của các kỹ năng tự phục vụ đối với sự phát triển của trẻ, chính vì vậy tôi đã chọn đề tài:
“ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi trong trường Mầm Non” làm đề tài nghiên cứu cho bản sáng kiến kinh nghiệm của mình.
II. Thời gian nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu của đề tài từ 9/2022- 3/2023
III. Phạm vi nghiên cứu:
Kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi lớp tôi đang phụ trách.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận:
Trẻ ở giai đoạn 3- 4 tuổi đây là giai đoạn quan trọng đối với sự phát triển của trẻ mầm non. Ở độ tuổi này , trẻ bắt đầu hình thành khả năng suy nghĩ muốn tự lập, muốn làm cái này, cái kia một mình. Tính tự lập là một biểu hiện tâm lý có ảnh hưởng trực tiếp đên quá trình phát triển và hình thành các phẩm chất nhân cách cho trẻ. Một số dấu hiệu bắt đầu hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn làm một số công việc đơn giản trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ lúc còn nhỏ không những tạo cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng giúp trẻ hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo làm cơ sở hình thành các kỹ năng sống cho trẻ sau này.
Là giáo viên, tôi nhận thấy việc giúp trẻ 3-4 tuổi có kỹ năng tự phục vụ bản thân mình là rất cần thiết, tự phục vụ là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi thử thách.
Tự phục vụ chính là chiếc chìa khóa sự sống còn, sự phát triển và sự thành công của mỗi con người,giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, và tư duy là một việc làm vô cùng quan trọng.
Khi nhắc đến dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non, nhiều người cho rằng đó là một cái gì to tát, cao siêu, nhưng thực tế dạy trẻ tự phục vụ là dạy trẻ những thói quen sinh hoạt hàng ngày trong giao tiếp, ứng xử của trẻ đối với bản thân và mọi người xung quanh.
Trẻ em ở lứa tuổi này thường hiếu động và mải mê vui chơi nên việc tự phục vụ như: vệ sinh cá nhân( rửa mặt, rửa tay, xịt khuẩn) mang lại hiệu quả đáng kể trong việc phòng các bệnh cảm cúm và dịch tay chân miệng cho bản thân trẻ cũng như hạn chế lây lan cho người khác. Khi tôi dạy trẻ rằng: Con hãy lau mặt cho sạch, trẻ thực hiện theo yêu cầu của cô, đó là hành động, nhưng để hành động đó trở thành kỹ năng thì cần phải có một quá trình giáo dục, Hành động của trẻ trở thành kỹ năng khi trẻ thấy tay bẩn trẻ đi rửa, mặt bẩn trẻ đi lau mặt, ăn cơm xong đi đánh răng… chứ không cần ai nhắc nhở, vì khi đó trẻ làm vì ý thức.
Như vậy: Bên cạnh việc dạy trẻ các hành động vệ sinh cá nhân: Rửa tay, lau mặt, chải đầu tóc, gấp quần áo hay nói chung là giữ vệ sinh cá nhân…..chúng ta cần dạy trẻ ý thức được những việc làm đó, và trẻ thực hiện các hành động đó vì ý thức trẻ hiểu chứ không phải vì người lớn bắt trẻ phải làm, khi đó kỹ năng sống của trẻ được hình thành và theo trẻ suốt cuộc đời. Khi hiểu được bản chất của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ: “Đưa hành động vào trong ý thức” thì việc dạy kĩ năng tự phục vụ cho trẻ trở nên đơn giản. Từ đó hình thành cho trẻ thói quen thực hiện hành vi văn hoá vệ sinh, để trẻ có thể tự bảo vệ mình, được sống thoải mái về thể chất và tinh thần - sống khỏe mạnh.
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Thuận lợi và khó khăn
1.1. Thuận lợi:
Trường lớp khang trang, sạch sẽ, thoáng mát. Trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia cấp độ 2.
Trẻ đến trường được học chương trình theo từng độ tuổi, ngoan ngoãn, hứng thú tham gia vào các hoạt động giáo dục.
Trường và phòng giáo dục tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên được tập huấn các chuyên đề.
1.2. Khó khăn:
Sau 2 năm nghỉ dịch do covit, trẻ ở nhà nhiều nên kỹ năng tự phục vụ bản thân chưa có.
Lớp còn đông, nhiều trẻ mới bắt đầu đi học nên chưa có nề nếp.
Trẻ còn bị ảnh hưởng do cuộc sống hiện đại như: internet, tivi, các trò chơi điện tử,…
Một số trẻ được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế.
Dựa trên những cơ sở thực tế, những thuận lợi, khó khăn đã nêu, bản thân tôisau khi tìm tòi, nghiên cứu tôi mạnh dạn đưara:“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3- 4 tuổi tại trường mầm non ” bằng các biện pháp sau:
Biện pháp 1: Lập kế hoạch thực hiện rèn trẻ các kỹ năng trong 1 năm học
Biện pháp 2: Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động hàng ngày.
Biện pháp 3: Lồng ghép một số bài thơ khi dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
Biện pháp 4: Quan tâm đến cách thức, thái độ khi hướng dẫn trẻ
Biện pháp 5: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
2. Thực trạng về kỹ năng tự phục vụ của trẻ:
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, sau khi nhận lớp một thời gian, tôi đã khảo sát chất lượng trẻ đầu năm học. Kết quả khảo sát đầu năm học như sau:
TT
|
Nội dung khảo sát
|
Đạt
|
Chưa đạt
|
SL
|
%
|
SL
|
%
|
1
|
Cách xếp hàng
|
20
|
43
|
26
|
57
|
2
|
Cách lấy và cất ghế
|
30
|
65
|
16
|
35
|
3
|
Cách lấy dép và đi dép
|
35
|
76
|
11
|
24
|
4
|
Cách cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy đinh.
|
24
|
52
|
22
|
48
|
5
|
Cách sử dụng bát, thìa cốc đúng cách
|
28
|
61
|
18
|
39
|
6
|
Cách lấy nước và uống nước
|
40
|
87
|
6
|
13
|
7
|
Cách lấy và cất gối
|
25
|
54
|
21
|
46
|
8
|
Cách rửa tay
|
10
|
22
|
36
|
78
|
9
|
Cách xúc miệng nước muối
|
15
|
32
|
31
|
68
|
10
|
Cách xử lý khi ho
|
30
|
65
|
16
|
35
|
11
|
Cách lau mặt
|
5
|
11
|
41
|
89
|
12
|
Cách mặc và cởi quần áo
|
8
|
17
|
38
|
83
|
13
|
Cách gấp và mắc quần áo
|
3
|
6
|
43
|
94
|
14
|
Cách cài khuy áo
|
5
|
11
|
41
|
89
|
15
|
Cách cầm dao, kéo
|
6
|
13
|
40
|
87
|
Qua việc khảo sát đầu năm, tôi nhận thấy trẻ lớp tôi đa số còn chưa biết cách tự phục vụ bản thân, chưa có ý thức giữ gìn vệ sinh thân thể, đặc biệt là khả năng tự giác còn rất ít trẻ đạt yêu cầu. Trẻ lớp tôi còn luôn ỷ lại, dựa dẫm vào cô giáo ở lớp, nếu không có cô giúp hoặc nhắc nhở thì trẻ không biết phải làm gì. Từ thực trạng nêu trên tôi đã nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp để rèn trẻ kĩ năng tự phục vụ cho trẻ lớp tôi như sau:
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1. Biện pháp 1: Lập kế hoạch rèn trẻ các kỹ năng trong 1 năm học
Đối với trẻ 3-4 tuổi thì nhận thức của trẻ còn hạn chế. Vì vậy để trẻ hiểu rõ hơn và để dễ đánh giá kết quả của trẻ. Tôi đã định ra các kế hoạch và lồng ghép vào các hoạt động trong ngày theo từng tháng như sau:
TT
|
Kỹ năng
|
T
9
|
T
10
|
T
11
|
T
12
|
T
1
|
T2
|
T3
|
T4
|
T5
|
1
|
Cách xếp hàng
|
x
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2
|
Cách lấy và cất ghế
|
x
|
x
|
|
|
|
|
|
|
|
3
|
Cách lấy dép và đi dép
|
|
x
|
|
|
|
|
|
|
|
4
|
Cách cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy đinh.
|
|
x
|
|
|
|
|
|
|
|
5
|
Cách sử dụng bát, thìa cốc đúng cách
|
|
|
x
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Cách lấy nước và uống nước
|
|
|
x
|
|
|
|
|
|
|
7
|
Cách lấy và cất gối
|
|
|
|
x
|
|
|
|
|
|
8
|
Cách rửa tay
|
|
|
|
x
|
|
|
|
|
|
9
|
Cách xúc miệng nước muối
|
|
|
|
|
x
|
|
|
|
|
10
|
Cáchxử lý khi ho
|
|
|
|
|
x
|
|
|
|
|
11
|
Cách lau mặt
|
|
|
|
|
|
x
|
|
|
|
12
|
Cách mặc và cởi quần áo
|
|
|
|
|
|
|
x
|
|
|
13
|
Cách gấp và mắc quần áo
|
|
|
|
|
|
|
|
x
|
|
14
|
Cách cài khuy áo
|
|
|
|
|
|
|
|
x
|
|
15
|
Cách cầm dao, kéo
|
|
|
|
|
|
|
|
|
x
|
Ngoài việc thường xuyên nhắc trở trẻ, dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ. Tôi vạch ra kế hoạch đưa các kỹ năng vào các tháng để chú trọng hơn, để biết trong tháng này ngoài các kỹ năng trẻ đã biết thì dạy trẻ kỹ năng gì mới. Hơn nữa làm như vật sẽ giúp trẻ nhớ hơn, là dạy trẻ một lúc nhiều kỹ năng, sau đó trẻ không nhớ gì. Đưa các kỹ năng theo tháng, cô giáo cũng dễ định hướng là tháng này cần dạy trẻ kỹ năng gì mà không bị bỏ quên, hay xót các kỹ năng.
2. Biệnpháp 2:Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động hàng ngày:
Việc đưa kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động hàng ngày giúp trẻ có thể làm những kỹ năng đó ở mọi lúc, mọi nơi
Đón trẻ: Bằng kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy của mình khi trẻ đến lớp, những ngày đầu năm học tôi hướng dẫn trẻ cách bỏ dép lên giá, nhận biết ngăn tủ đựng đồ dùng cá nhân của mình qua ký hiệu riêng cho từng trẻ ; Khi trẻ quen dần với các hoạt động, cô yêu cầu trẻ thực hiện, sau một thời gian thực hành với sự giám sát của cô trẻ lớp tôi khi đến lớp, một số trẻ đã có thể tự cất và biết tháo giày dép và sắp xếp gọn gàng lên giá, biết cất đồ dùng vào ngăn tủ quy định.( Hình ảnh 1, 2)
Hoạt động thể dục sáng: Dưới sự hướng dẫn của cô, trẻ biết ra sân xếp hàng tập thể dục. Trẻ biết lấy và cất dụng cụ thể dục như gậy và vòng vào rổ.( Hình ảnh 3, 4, 5)
Trong hoạt động học: Cũng như các hoạt động khác, hoạt động học cũng góp phần rèn kỹ năng tự phục vụ một cách hiệu quả. Trước đây trước khi vào dạy một hoạt động nào đó thì giáo viên là người chuẩn bị và bày sẵn trước mặt trẻ các loại đồ dùng, trẻ chỉ việc lấy đồ dùng đó và học, điều này dẫn đến trẻ thụ động không đáp ứng yêu cầu rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Với tôi khi cho trẻ tham gia hoạt động tôi thường cho trẻ tham gia chuẩn bị học liệu cùng cô, khi đã chuẩn bị xong tôi để theo nhóm và trẻ tự đi lấy đồ dùng của mình, khi hoạt động xong trẻ tự đi cất đồ dùng của mình vào đúng nới quy định, khi trẻ tham gia hoạt động này tôi luôn sát sao với trẻ, với những trẻ làm tốt tôi nêu gương để các bạn noi theo, với những trẻ yếu, những trẻ chưa thực hiện được, tôi có thể giúp đỡ, nhằm giúp trẻ ý thức tự lập và rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
( Hình ảnh 6,7,8,9,10 )
Trong hoạt động chơi: Hoạt động vui chơi là hoạt động quan trọng nhất giữ vai trò chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Thông qua chơi trẻ được thực hành trải nghiệm, tự lựa chọn làm các công việc trẻ thích trong thực tế không bị gò bó áp đặt mà lại gây được hứng thú cho trẻ tích cực tham gia hoạt động. Bởi nó đáp ứng được nhu cầu của trẻ, trẻ tự được sáng tạo. Trong giờ chơi giáo viên cho trẻ biết sử dụng những đồ dùng sinh hoạt một cách gọn gàng khéo léo. Cô cho trẻ tự lấy và cất đồ chơi đúng nơi quy định biết sắp xếp đồ chơi gọn gàng ngăn nắp đúng nơi quy định. Việc tổ chức tốt hoạt động vui chơi không chỉ giúp trẻ hình thành khả năng mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển kỹ năng tự phục vụ cho trẻ sau này.( Hình ảnh 11,12 )
Khi chơi tại các góc: Với hoạt động này tôi là người trò chuyện gợi ý cho trẻ vào các góc chơi, để từ đó trẻ biết về các góc chơi của mình biết lấy đồ dùng đồ chơi cần thiết để chơi và khi chơi xong biết cất đồ dùng đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp. Cô giáo là người hướng dẫn động viên khen ngợi trẻ kịp thời để trẻ phát huy được tính tự giác và rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ một cách hiệu quả.
( Hình ảnh 13,14,15,16 )
Trong hoạt động ăn: Giờ ăn của trẻ nhiều phụ huynh cho rằng làm sao cho trẻ ăn nhanh, ăn xong là được, điều này không đúng với nội dung giáo dục trẻ mầm non, bản thân tôi rất coi trọng giờ ăn của trẻ bởi giờ ăn là một trong những hoạt động tạo thói quen trong ăn uống, đây là lúc trẻ thực hiện hành vi văn minh nhiều nhất. Trước giờ ăn tôi hướng dẫn và chuẩn bị giờ ăn cùng trẻ, kê bàn , lấy khăn, đến giờ ăn đối với những bữa ăn thường tôi chia cơm và cho trẻ lên chia cơm cho bạn, đối với những bữa ăn “gia đình” tôi cho trẻ tự lấy cơm, lấy thức ăn dưới sự giám sát của cô, với hình thức này giáo dục cho trẻ tính tự phục vụ và đoàn kết trong giờ ăn. Trong khi ăn tôi rèn cho trẻ thói quen tự xúc ăn hết suất, biết xin thêm cơm khi muốn ăn nữa, khi ăn không làm rơi vãi thức ăn ra bàn....Khi ăn xong trẻ biết tự cất bát, thìa, biết tự cất ghế gọn gàng, biết rửa tay, lau mặt sạch sẽ, biết lấy nước uống ,biết đi vệ sinh, biết lấy gối, chăn và về chỗ ngủ của mình.( Hình ảnh 17,18,19,20,21,22 )
Trong hoạt động ngủ, vệ sinh: Trước khi đi ngủ, trẻ biết đi vệ sinh, giúp cô kê vạt giường, cất vạt giường, cất gối gọn gàng đúng nơi quy định.
( Hình ảnh 23,24,25,26 ).
Trong hoạt động chiều: Dạy kỹ năng tự phục thông qua hoạt động học chiều: Giờ giáo dục kỹ năng sống.
Tôi cho trẻ xem băng hình giáo dục các kỹ năng tự phục vụ hoặc giáo viên
sẽ làm thao tác mẫu cho trẻ xem sau đó cho trẻ thự hiện cùng cô.
Việc rèn trẻ các kỹ năng tự phục vụ trong các hoạt động trong ngày như vậy,
tôi thấy trẻ lớp tôi đã có thói quen, nề nếp trong việc tự phục vụ của bản thân, trẻ
có ý thức tự lập hơn trong những công việc đơn giản, phù hợp với khả năng của
trẻ, từ đó hình thành kỹ năng tự phục vụ.
Ngoài ra vào hoạt động chiều tôi thường cho trẻ thực hành trải nghiệm, rèn kỹ năng thực tế như rèn kỹ năng đi tất, mặc áo, kỹ năng đi vệ sinh đúng nơi quy định…, thông các các bài thơ, bài hát, câu chuyện trong các hoạt động chiều như: Bé ơi, anh tý sún, Mèo con học chải răng, gấu con bị đau răng... tôi đều đưa nội dung giáo dục ý thức tự phục vụ cho trẻ.
( Hình ảnh 27,28,29 )
3. Biện pháp 3: Lồng ghép một số bài thơ khi dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ:
Để trẻ dễ nhớ, dễ thực hiện thì khi dậy trẻ kỹ năng nào tôi sẽ dạy trẻ một bài thơ. Trẻ sẽ đọc thơ và làm theo.Như vậy trẻ sẽ sẽ rất hứng thứ vì trẻ vừa đọc thơ và vừa được diễn lại.
Hay khi dạy kỹ năng rửa tay có rất nhiều kỹ năng khó và các bước. Trẻ rất khó nhớ. Thậm chí khi thực hiện trẻ sẽ sợ và làm không đứng yêu cầu kỹ năng cần đặt ra. Vì vậy, để cho trẻ nhớ tôi sẽ vừa cho trẻ đọc bài thơ “ Rửa tay” và trẻ thực hiện.
Và khi dạy kỹ năng lau mặt tôi cho trẻ đọc bài thơ “ Bé tập rửa mặt”
Tiếp khi dạy đến kỹ năng xử lý khi ho tôi cũng tự sáng tác bài thơ “Cô dạy bé” để cho trẻ dễ nhớ.
Nhờ có việc dậy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các bài thơ nên trẻ rất nhớ, và thực hiện khá tốt các kỹ năng được học.
4. Biện pháp 4: Quan tâm đến cách thức, thái độ khi hướng dẫn trẻ
Khi hướng dẫn trẻ một kĩ năng nào đó, tôi hướng dẫn một cách chậm rãi từng thao tác một. Khi trẻ đã nắm được thao tác này thì tôi mới chuyển sang thao tác khác. Tập dần từng việc, từ tự ăn, tự mặc quần áo, tự dọn dẹp đồ đạc…hoặc để trẻ tự do làm điều gì trẻ thích chứ tôi không ép buộc phải tự lập đồng bộ.
Tôi cố gắng không tỏ ra sốt ruột khi trẻ thất bại nhiều lần bởi như vậy sẽ gây áp lực và khiến trẻ mất hết tự tin. Tùy vào khả năng của trẻ để rèn giũa, nhanh chậm không quan trọng mà vấn đề là trẻ làm được gì.
Tôi cho trẻ được thực hiện thường xuyên, liên tục để trở thành kĩ năng, tạo cho trẻ cảm giác phấn khởi là mình cũng giỏi như bạn. Ví dụ: Đối với trẻ xúc ăn chưa thạo. Ban đầu tôi chấp nhận việc cơm sẽ rơi vãi ra bàn, ra lớp. Để bé tự làm rồi quan sát để biết vướng mắc chỗ nào rồichỉ dẫn bé cách làm đúng.
( Hình ảnh 30, 19)
5. Biện pháp 5:Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ:
Tôi thường trò chuyện với phụ huynh để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình trẻ, tính cách trẻ và đăc biệt là quan điểm giáo dục của gia đình trẻ .Dần dần tôi giúp phụ huynh hiểu được rằng việc để con tự phục vụ, không quá bao bọc, hay không có bố mẹ kè kè ở bên chính là đang mang lại những điều tốt đẹp cho con sau này.Việc để cho con tự phục vụ bản thân của các bậc phụ huynh không chỉ giúp cho các bé tự tin, thể hiện bản lĩnh cá nhân dám đương đầu với mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống mà còn giúp các bé trưởng thành hơn.
Thực tế, không phải cứ muốn con tự lập thì quẳng con ra ngoài và mặc kệ con, mà luôn để con tự làm mọi thứ trong mức khả năng tối đa có thể nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện và cung cấp những hỗ trợ cần thiết nhất để con có thể bước đầu tự lập, lặng lẽ giúp bé nâng cao sự tự tin nhưng vẫn không bị lệ thuộc cha mẹ.Tôi cũng gợi ý cho phụ huynh một số giải pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở nhà:
Khi trẻ tập ăn, để hạn chế bát đũa đổ vỡ và các con bôi bẩn lung tung, thì trải một tấm thảm nhựa dưới chân ghế ăn, bát, đũa cũng dùng những loại bằng nhựa, được thiết kế đặc biệt phù hợp với khả năng cầm của trẻ và thực phẩm cũng luôn cắt gọn đến phức trẻ có thể tự xúc mà không gặp rắc rối.
Trên bàn ăn, cần đặt một chiếc khăn lau bàn và một chiếc lau tay để trẻ có thê học theo người lớn tự vệ sinh cho sạch. Bồn rửa mặt và đánh răng quá cao thì sẽ thiết kế một chiếc ghế để con trèo lên. Quần áo nhiều cúc con chưa biết cởi thì sẽ thiết kế những loại khoá kéo hoặc cúc bấm đơn giản để con có thể tự mặc quần áo.
Về giày dép, luôn có một hình ngôi sao hoặc hoạ tiết nhỏ thêu vào để con biết phân biệt giày trái – phải mà tự đi đúng chân. Ở nhà muốn con biết tự cất đồ chơi thì cha mẹ sẽ làm một vài chiếc giỏ, trên đó dán đề can hiển thị loại đồ chơi được phép bỏ vào giỏ để trẻ hiểu qui tắc mà phân loại, cất giữ đúng chỗ.
Phụ huynh cần phải gần gũi trò chuyện với trẻ, là một bạn chơi của trẻ, hướng dẫn cho trẻ biết các kỹ năng đơn giản thông qua các trò chơi. Hướng dẫn trẻ phụ giúp một số việc phù hợp: Gấp quần áo giúp mẹ, khi gấp quần áo cho trẻ cài cúc áo, quần, kéo xéc; xếp đồ chơi sau khi chơi xong; lau dọn bàn ghế, với hoạt động này giúp cho trẻ có các kỹ năng tự phục vụ và phát triển các kỹ năng vận động (các cơ bàn tay, ngón tay…), hình thành các thói quen ngăn nắp gọn gàng và giúp trẻ phát triển nhận thức.
Trong sinh hoạt hằng ngày ở gia đình làm sao để trẻ có nề nếp thói quen tự giác thì phụ huynh cần phải chú ý giáo dục cho trẻ các kỹ năng trong vệ sinh, ăn, ngủ: Giờ ăn phụ huynh lên cho trẻ tự xúc ăn, ăn xong nhắc trẻ cất đồ dùng, đi súc miệng, đánh răng; Vệ sinh trước khi ăn, sau khi ăn; Vệ sinh trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy, phụ huynh không nên làm hộ trẻ, nếu làm hộ trẻ tạo cho trẻ thói quen ỉ lại, không biết tự phục vụ, vụng về, chậm chạp trong các hoạt động. Hướng dẫn và rèn luyện trẻ kĩ năng rửa tay, thói quen rửa tay trước khi ăn.(Hình ảnh 17)
IV. KẾT QUẢ :
Đối với hoạt động giáo dục:
Từ những giải pháp trên tôi đã áp dụng trên trẻ và đạt được một số kết quả như sau:
Bảng khảo sát cuối năm về thực trạng chất lượng kỹ năng tự phục vụcủa trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi
Bảng 2:SỐ LIỆU KHẢO SÁT SAU KHI THỰC HIỆNBIỆN PHÁP
TT
|
Nội dung khảo sát
|
Đạt
|
Chưa đạt
|
SL
|
%
|
SL
|
%
|
1
|
Cách xếp hàng
|
48
|
100
|
0
|
0
|
2
|
Cách lấy và cất ghế
|
48
|
100
|
0
|
0
|
3
|
Cách lấy dép và đi dép
|
48
|
100
|
0
|
0
|
4
|
Cách cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy đinh.
|
35
|
73
|
13
|
27
|
5
|
Cách sử dụng bát, thìa cốc đúng cách
|
40
|
83
|
8
|
17
|
6
|
Cách lấy nước và uống nước
|
43
|
89
|
5
|
11
|
7
|
Cách lấy và cất gối
|
40
|
83
|
8
|
17
|
8
|
Cách rửa tay
|
45
|
94
|
3
|
6
|
9
|
Cách xúc miệng nước muối
|
44
|
92
|
4
|
8
|
10
|
Cách xử lý khi ho
|
40
|
83
|
8
|
17
|
11
|
Cách lau mặt
|
40
|
83
|
8
|
17
|
12
|
Cách mặc và cởi quần áo
|
33
|
69
|
15
|
31
|
13
|
Cách gấp và mắc quần áo
|
30
|
62
|
18
|
38
|
14
|
Cách cài khuy áo
|
35
|
73
|
13
|
27
|
15
|
Cách cầm dao, kéo
|
29
|
60
|
19
|
40
|
* Đối với trẻ:
100% trẻ có kỹ năng tự phục vụ cơ bản.
Trẻ năng động, sáng tạo, tự tìm hiểu, khám phá và giải quyết công việc một cách hứng thú.
Kỹ năng tự phục vụ của trẻ được thể hiện trong các hoạt động rất tốt: Trẻ biết chào hỏi lễ phép. Trẻ biết tự thay và mặc trang phục phù hợp. Biết vệ sinh cơ thể sạch sẽ. Biết giúp cô và bạn chia sẻ những công việc vừa sức, trẻ có thói quen lao động và trẻ có thểtự giải quyết được các tình huống xảy ra. Quan trọng là trẻ có thể tự mình làm mọi việc và hòa mình với môi trường mới.
* Đối với giáo viên
Cô giáo chủ động, linh hoạt hơn trong tổ chức các hoạt động giáo dục lồng ghép kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở lớp.
Trong giáo dục chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động lồng ghép giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Tôi được trau dồi kiến thức và nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm. Tích lũy một số kinh nghiệm trong quá trình tổ chức một số giải pháp giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ, với ý thức tự học, tự rèn luyện cho mình thể hiện được tình cảm âu yếm, thân ái, lịch sự, lựa chọn được các giải pháp phù hợp với trẻ
* Đối với đồng nghiệp: :
SKKN của tôi là một trong những tài liệu để cho đồng nghiệp dùng tham khảo và ứng dụng vào trong quá trình tổ chức các hoạt động tại nhóm, lớp của mình phù hợp.
* Đối với nhà trường:
Bản SKKN của tôi được hội đồng khoa học trường đánh giá cao, dùng làm tài liệu lưu tại trường và được nhà trường triển khai cho tất cả mọi người cùng tham khảo, học tập, rút kinh nghiệm.
* Đối với phụ huynh.
- Phụ huynh nhận thức đúng đắn về việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ và thay đổi hoàn toàn nhận thức đến hành động làm hộ trẻ khi ở nhà.
- Quan tâm , tin tưởng cô giáo hơn khi gửi con đến trường.
- Tôi cũng kết hợp với phụ huynh rèn thêm cho một số kỹ năng cho trẻ tự phục vụ ở nhà để trẻ làm tốt hơn nữa.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi đã áp dụng vào lớp 3-4 tuổi và có kết quả tốt .Trẻ lớp tôi có nề nếp tự phục vụ được bản thân, hứng thú khi tham gia các hoạt động kỹ năng tự phục vụ tại trường.
Quan sát trẻ lớp mình, tôi thấy không còn hình ảnh bố mẹ bế trẻ vào lớp hay hình ảnh bố mẹ xách túi cho con ,mà trẻ tự đeo cặp, tự để balo vào ngăn tủ của mình, dép để ngay ngắn lên giá dép, biết tự chào cô…
Từ đó những thói quen tốt của trẻ được hình thành và sẽ phát triển bền vững.
Trẻ năng động, sáng tạo, tự tìm hiểu, khám phá và giải quyết công việc một cách hứng thú.
Bằng các biện pháp khác nhau trẻ được thực hành, trải nghiệm, được tự thỏa mãn nhu cầu tự phục vụ , tôi thấy học sinh lớp tôi ngày càng hứng thú tham gia các hoạt động của lớp, và đặc biệt trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong mọi hoạt động, các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ mọi người trở nên tốt hơn, không cần cô giáo phải nhắc nhở nhiều mà trẻ thực hiện một cách tự nguyện và thích thú
Phần lớn trẻ đã thực hiện được các hoạt động: cất đồ dùng đúng nơi qui định, tự rửa tay, rửa mặt trước khi ăn, biết tự xả nước sau khi đi vệ sinh và biết rửa tay bằng xà phòng, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, nhặt rác bỏ vào thùng rác, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi sau khi chơi, chuẩn bị đồ dùng cá nhân trước khi ra về.…. một số trẻ còn biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.
Phần nào đã giúp các bậc phụ huynh hiểu vai trò của việc giáo dục tính tự lập và có phương pháp rèn luyện đúng đắn cho bé.
II. KIẾN NGHỊ
Qua tìm tòi nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi nhận thấy “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi trong trường Mầm Non”là vô cùng cần thiết.
Vì vậy, các cấp lãnh đạo tạo điều kiện mở lớp tập huấn chuyên môn về
“ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi trong trường Mầm Non” cho giáo viên học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm.
Trên đây là một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi của tôi đã triển khai thực hiện và áp dụng cho trẻ lớp tôi đạt kết quả tốt. Rất mong được sự quan tâm, bổ sung, đóng góp ý của các cấp lãnh đạocho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !