1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Độ tuổi này trẻ được đến trường, trẻ được vui chơi, học hành, trẻ còn được sự chăm sóc ân cần của cô giáo, lại có các bạn học cùng trang lứa thật vui biết bao nhiêu.
Độ tuổi này trẻ đang được trong vòng tay bố mẹ, được bố mẹ dìu dắt từng bước đi, bón từng thìa cơm, chăm từng giấc ngủ , trẻ được vui chơi, được ở nhà nên việc rời bố mẹ hàng ngày đến lớp là một việc rất khó khăn.
Bước vào năm học mới, mỗi giáo viên chúng tôi ai cũng có một tinh thần trách nhiệm cao đối với lớp của mình. Nhưng thực tế bước vào những ngày đầu đón trẻ của năm học thực sự mỗi chúng tôi đã phải cố gắng hết mình vì công việc, vì các cháu. Bởi các cháu nhà trẻ thì đây là thời gian mà các cháu bước đầu rời xa vòng tay cha mẹ đến với một môi trường mới với những người mà bé chưa từng gặp. Các cháu đi học khóc rất nhiều, có những cháu còn nôn trớ ra người cô giáo, thậm chí đánh cả cô giáo.
Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt khi ở lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ biết nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình, hứng thú nhận thức càng cao trẻ càng thể hiện rõ hơn năng lực của bản thân. Thậm chí hứng thú có thể làm biến đổi một cách đáng kể hiệu quả hoạt động của trẻ.
Đối với phụ huynh thì không dám tin con mình có đi học được hay không, sợ con khóc nhiều, khi xa bố mẹ làm sao để phụ huynh yên tâm gửi con cho các cô. Tôi đã thực hiện một biện pháp nhỏ làm cho phụ huynh yên lòng để trẻ đến lớp không sợ sệt. Là giáo viên tôi nghĩ làm sao để trẻ hứng thú thích đi học ngay những ngày đầu tiên đến trường lớp. Chính vì thế tôi mạnh dạn trình bày “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ sớm thích nghi đến trường mầm non”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đem lại đạt hiệu quả trẻ thích nghi với môi trường lớp Mầm non. Một trong những yếu tố để làm được điều đó là biết tận dụng phối kết hợp các nguồn nhân lực để tổ chức cho trẻ hoạt động qua các hoạt động hướng dẫn trẻ đi vào nề nếp thói quen, các hoạt động học và chơi. Ở trẻ Mầm Non chủ thể tích cực thích nghi với môi trường mới, giáo viên là người tạo cơ hội hướng dẫn gợi mở các hoạt động tìm tòi của trẻ, trẻ chủ động tham gia các hoạt động để phát triển khả năng, năng lực của cá nhân phải khắc phục được những hạn chế và kế thừa những mặt mạnh. Hình thành cho trẻ những tâm lý, những cơ sở ban đầu nhân cách năng lực làm người của trẻ. Đó chính là hình thành phát triển các lĩnh vực: Tình cảm xã hội , Nhận thức, Thể chất, Thầm mĩ, Ngôn ngữ.
3. Đối tượng nghiên cứu :
Trẻ nhà trẻ (24 – 36 tháng ) trong trường mầm non .
4. Phạm vi nghiên cứu :
Trẻ nhà trẻ (24 - 36 tháng) tại lớp nhà trẻ D2 trường mầm non Yên Xá - xã Tân Triều – học sinh do tôi phụ trách.
5. Biện pháp nghiên cứu :
- Biện pháp điều tra.
- Biện pháp phân tích.
- Biện pháp quan sát.
- Biện pháp đàm thoại.
- Biện pháp thực nghiệm.
6. Thời gian nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu của đề tài từ 09 năm 2022 đến tháng 04 năm 2023.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
Xuất phát từ tâm lý của trẻ nhà trẻ lúc này trẻ vừa sống trong môi trường gia đình. Bước đầu trẻ phải đi học, được tiếp xúc với nhiều người trong xã hội, trẻ 24 – 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, khóc nhiều vì xa cha mẹ, chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và tính cách khác nhau, đa số phụ huynh buôn bán tự do hay tính chất công việc chiếm nhiều thời gian, một số phụ huynh do bận rộn công việc kiếm sống nên chưa thực sự quan tâm đến con em mình, vì vậy việc phụ huynh nhờ cậy việc dạy dỗ con cái cho cô
giáo ở trường và có một số phụ huynh lại thương con khóc nhiều, nôn trớ lại đưa con về không cho đi học nữa.Vì thế để các cháu thích được đi học và phụ huynh yên lòng gửi con đến lớp,thu hút được đông các cháu đi học, tôi quyết định chọn đề tài này để đưa ra một số biện pháp tốt nhất giúp trẻ thích được đến lớp không rụt rè, sợ sệt và dần quen với môi trường để phụ huynh an tâm trong những ngày đầu tiên con mình xa bố mẹ.
Việc giúp trẻ 24-36 tháng tuổi sớm thích nghi với trường, với lớp, với các cô là một vấn đề vô cùng quan trọng. Mỗi tính cách của mỗi đứa trẻ khác nhau và cách làm quen với trẻ cũng khác nhau. Phụ huynh thì thường hay so sánh giữa lớp nhỏ và lớp lớn, giữa cháu cũ và cháu mới và lo lắng không biết cô đối xử với con mình ra sao? có tốt không? Với tất cả những lo lắng băn khoăn ấy tôi đã lựa chọn “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi sớm thích nghi với trường mầm non”.
II. Cơ sở thực tiễn
1.Thuận lợi
- Trường có điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đầy đủ theo qui định cho các độ tuổi. Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, chuyên đề lồng ghép các kỹ năng sư phạm để chị em đồng nghiệp học tập rút kinh nghiệm.
- Tập thể sư phạm đoàn kết, yêu thương quan tâm giúp đỡ nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống, cùng nhau học hỏi trao đổi kinh nghiệm.
- Giáo viên trong nhóm lớp có thể ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy nên cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc dạy trẻ và tạo hứng thú cho trẻ.
- Đa số trẻ đi học rất đều. Phụ huynh nhiệt tình, quan tâm, có nhiều kiến thức về chăm sóc cũng như giáo dục các con theo cách tự lập. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi trong việc các con đến trường sẽ sớm thích nghi với môi trường mới.
- Giáo viên luôn tạo hứng thú cho trẻ mỗi khi đến lớp cũng như khi trẻ vào tiết học. Cô luôn gần gũi quan tâm chăm sóc trẻ chu đáo, tạo được cho trẻ cảm giác an toàn như đang ở bên người thân.
- Trẻ luôn gần gũi cô, mạnh dạn, hồn nhiên.
2. Khó khăn
Mặc dù có những thuận lợi trên nhưng trong quá trình thực hiện:“ Một số biện pháp giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi sớm thích nghi với trường mầm non” vẫn còn gặp nhiều khó khăn:
- Mặc dù giáo viên trẻ nhiệt huyết song việc tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục còn chưa linh hoạt sáng tạo.
- Đầu năm lớp tôi nhận toàn trẻ mới nên việc các con bỡ ngỡ, rụt rè và còn quấy khóc nhiều.
- Môi trường lớp học cũng như đồ dùng đồ chơi tự tạo còn đơn giản, số lượng ít, chưa phong phú, chưa tạo được hứng thú cho trẻ.
- Dựa trên những trên cơ sở thực tế, những thuận lợi, khó khăn đã nêu, bản thân tôi sau khi tìm tòi, nghiên cứu tôi mạnh dạn đưa ra: “Một số biện pháp giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi sớm thích nghi đến trường lớp mầm non ” bằng các biện pháp sau:
- Biện pháp 1: Tạo niềm tin với trẻ và phụ huynh.
- Biện pháp 2: Tập cho trẻ thói quen nề nếp mới, bắt đầu từ những thói quen cũ của trẻ.
- Biện pháp 3: Xây dựng môi trường lớp học thu hút sự chú ý của trẻ.
- Biện pháp 4: Thay đổi hình thức trong các hoạt động của trẻ
- Biện pháp 5: Đồng hành cùng phụ huynh.
3. Thực trạng đầu năm về khả năng thích nghi với trường mầm non của trẻ.
Để thực hiện tốt biện pháp nâng cao khả năng thích nghi nhanh cho trẻ ở trường mầm non, tôi đã tiến hành khảo sát trẻ lớp tôi và thu được kết quả cụ thể như sau:
Nội dung khảo sát đầu năm
|
Đạt
|
Chưa đạt
|
Trẻ đi học không khóc
|
6 trẻ = 20%
|
24 trẻ = 80%
|
Trẻ thích chơi cùng cô và các bạn
|
12 trẻ = 40%
|
18 trẻ = 60%
|
Trẻ có nề nếp, hứng thú với các hoạt động
|
9 trẻ = 30%
|
21 trẻ = 70%
|
Qua việc khảo sát trên tôi nhận thấy việc “ giúp trẻ 24-36 tháng tuổi sớm thích nghi với trường mầm non” nói chung và lớp tôi nói riêng chưa thực sự đạt được kết quả tốt. Nên bản thân tôi băn khoăn, trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để giúp trẻ nhanh thích nghi với trường lớp mầm non. Nhưng với sự cố gắng kiên trì của bản thân và sự quan tâm của Ban giám hiệu đã giúp tôi vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ và tìm ra được những biện pháp hữu hiệu nhất.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Biện pháp 1 : Tạo niềm tin với trẻ và phụ huynh.
Để nắm được tâm lý của trẻ, tạo được niềm tin với trẻ và phụ huynh tôi thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn để nhìn nhận chính xác về tình trạng của lớp mình từ đó đưa ra các hoạt động điều chỉnh đến từng cá nhân trẻ. Bởi vì mỗi trẻ có một tính cách tâm sinh lý khác nhau. Bên cạnh đó tôi trò chuyện thường xuyên với phụ huynh về trẻ để biết trẻ thích ăn gì, không thích gì, ngủ như thế nào? các thói quen sinh hoạt hàng ngày ở gia đình ra sao?
Những ngày đầu tiên đến trường trẻ thường hay ôm chặt lấy bố mẹ - người thân của mình, im lặng nhìn xung quanh, liên tục rò xét và tự hỏi:
- Đây là đâu? Ở đây sao có nhiều người lạ như vậy?
Nắm bắt được tâm lý đó, thay vì vồ vập xà vào ôm trẻ khiến trẻ sợ và cảm thấy bất ngờ tôi thường mỉm cười nhẹ nhàng làm quen với trẻ bằng những câu hỏi đơn giản như:
- Con tên là gì?
- Bạn An có bộ quần áo đẹp quá. Ai mua cho con vậy?
- Cô Hảo nhờ An bế giúp cô bạn búp bê này nhé!
- Con có thích chơi với những đồ chơi kia không? Lớp cô có rất nhiều đồ chơi mới con vào chơi cùng cô nhé!....
Sau khi trò chuyện với phụ huynh và từ từ vuốt ve trẻ tôi sẽ nhẹ nhàng nắm tay trẻ để bước đầu trẻ cảm thấy an toàn.
Trong lớp học trưng bày nhiều đồ chơi thu hút trẻ, chuẩn bị cơ sở vật chất phòng học thoáng mát, sạch sẽ, đảm bảo an toàn. Khi trẻ bắt đầu quen dần với cô thì cô nhẹ nhàng dắt trẻ vào lớp hoặc có thể tổ chức những trò chơi hấp dẫn sự chú ý của trẻ, thu hút trẻ. Bên cạnh đó cô chú ý đến biểu hiện của trẻ.
Tuy nhiên có nhiều trẻ vẫn nhút nhát chưa dám ra chơi cùng cô và các bạn, chỉ ngồi trong lòng mẹ, tôi sẽ tiếp tục trò chuyện với phụ huynh về thói quen, cách sinh hoạt hàng ngày của trẻ, cho đến khi trẻ cảm nhận thấy sự gần gũi giữa mẹ và cô từ đó trẻ sẽ chơi với cô và các bạn trong lớp.
Khi trò chuyện hoặc chơi cùng trẻ tôi thường xưng tên tôi chứ không xưng "cô" và trẻ sẽ nhanh thuộc tên tôi. Tôi chơi với trẻ như những người bạn không phân biệt cô giáo và học trò tạo sự thoải mái, thân thiện giúp trẻ có tâm lý an tâm và thoải mái.
Và kết quả tôi thu được đó là các con đến trường không khóc, một số bạn nhỏ còn mạnh dạn tự đi vào lớp, chào tạm biệt bố mẹ, người thân. Phụ huynh rất phấn khởi, yên tâm và tin tưởng gửi gắm con tới trường tới lớp.
Những lời động viên, khích lệ của cô sẽ giúp trẻ phấn khởi, trẻ nhanh vào nề nếp và ngoan hơn. Ngoài ra cô giáo cũng cần thường xuyên uốn nắn và tập cho trẻ cách đi đứng, xưng hô, cách chào hỏi, cách trả lời khi cần thiết.
Ngay từ ngày đầu nhận lớp, cô giáo vừa ổn định lớp vừa phải đi sâu vào việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ trong các hoạt động, khi trẻ đã có nề nếp thói quen trẻ sẽ say mê và hứng thú với các hoạt động chăm sóc - giáo dục của cô. Trẻ có nề nếp, không bị phân tâm từ đó trẻ lĩnh hội được kiến thức, đặc biệt là trẻ sẽ tự tin mạnh dạn, hồn nhiên, biết biểu hiện tình cảm của mình thông qua các nội dung của các hoạt động trong ngày.
(Ảnh minh hoạ 1,2)
2. Biện pháp 2: Tập cho trẻ thói quen nề nếp mới, bắt đầu từ những thói quen cũ của trẻ.
Những ngày đầu trẻ mới đến lớp trẻ còn rất nhiều bỡ ngỡ và trẻ còn nhiều thói quen không tốt. Vài ngày đầu tôi vẫn chiều theo những thói quen không tốt đó của trẻ như: Trẻ không chịu cất đồ mà cứ ôm ba lô, ôm gối, khi ăn không chịu ngồi vào bàn ăn hoặc vừa ăn vừa chạy lung tung nô nghịch. Tôi tập dần cho trẻ thói quen, nề nếp chứ không bắt ép trẻ vào nề nếp ngay mà tập từ từ khi trẻ quen sẽ bỏ những thói quen không tốt.
- Đối với giờ ăn:
Có thể vài ngày đầu trẻ không chịu ăn, chống đối cô hoặc trẻ không ăn rau, không ăn thịt, ăn cá... tôi sẽ từ từ tập dần thói quen cho trẻ đến khi trẻ quen dần và hiểu chuyện tôi sẽ đưa trẻ vào nề nếp ăn ngủ, vệ sinh. Nếu trẻ không muốn ăn nữa hoặc muốn ói cô phải ngưng cho trẻ ăn vì nếu để trẻ ói thì sẽ khiến trẻ sợ thức ăn ở trường dẫn đến hiện tượng bỏ ăn luôn.
Với những trẻ khóc nhiều chưa chịu ăn tôi sẽ cho bé ngồi cạnh mình, trò chuyện động viên khích lệ trẻ ăn hết xuất, tuyệt đối không dọa trẻ để trẻ hãi, không tạo bầu không khí có áp lực, mà khen trẻ để trẻ phấn khích hơn, chịu ăn hơn. Còn nếu trẻ vẫn không chịu ăn, tôi cũng sẽ không bắt ép trẻ mà thay vào đó sẽ phần lại khẩu phần ăn của trẻ cho ăn bù vào bữa chiều hoặc cho trẻ uống sữa bù vào bữa ăn đó. Cuối ngày trao đổi lại với phụ huynh để phụ huynh nắm bắt được và dặn phụ huynh cho trẻ ăn thêm khi về nhà.
Hàng ngày tôi sẽ tập cho trẻ ăn tăng thêm một chút, dần dần để trẻ thích nghi với khẩu phần ăn ở trường và đặc biệt không cho trẻ ăn quà vặt trước giờ ăn để tạo sự thèm ăn cho trẻ.
(Ảnh minh hoạ 3, 4, 5)
- Đối với giờ ngủ:
Nhiều trẻ chưa quen với giấc ngủ ở trường, thậm chí còn có trẻ quấy khóc suốt buổi trưa hay tới giờ ngủ phải bế trên vai mới ngủ. Do vậy khi tới giờ ngủ trưa tôi thường nằm cạnh trẻ ôm ấp, vỗ về để trẻ cảm thấy yên tâm như đang ở bên người thân của mình vậy.
Những trẻ khó vào giấc tôi sẽ bế trẻ trên tay dần dần ru trẻ vào giấc ngủ. Mỗi ngày tôi lại tập dần cho trẻ thói quen ngủ ở lớp dần dần trẻ sẽ đi vào nề nếp, ăn xong đi vệ sinh và về chỗ nằm ngủ rất ngoan.
(Ảnh minh hoạ 6, 7)
3. Biện pháp 3 : Xây dựng môi trường lớp học thu hút sự chú ý của trẻ
Tạo môi trường đẹp trong lớp học là để khi trẻ đến lớp ấn tượng đầu tiên tác động vào trẻ là toàn bộ sự bài trí, cách sắp xếp trang trí lớp học để gây ấn tượng, kích thích lòng ham muốn ở trẻ tạo cho trẻ sự ham thích, hứng thú muốn khám phá môi trường mới đồng thời cũng tri phối sự chú ý của trẻ để trẻ nhanh hòa nhập vào môi trường lớp học mà quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ người thân trong những buổi đầu tới trường, tới lớp.
a. Tạo môi trường lớp học gần gũi, thân thiện
Ngày đầu tiên trẻ đến trường tôi nghĩ trong lớp phải có nhiều đồ chơi đẹp để thu hút trẻ,vì vậy chuẩn bị đón trẻ tôi và chị em trong lớp sắp xếp gọn gàng các góc chơi. Cô cho trẻ chơi nhiều góc chơi trong lớp với nhiều đồ chơi hấp dẫn để tao sự thích thú ở trẻ.
Tuỳ theo chủ đề, tôi sắp xếp đồ chơi gọn gàng đẹp mắt, ngang tầm với trẻ, thật hấp dẫn và thu hút trẻ. Đồ chơi phong phú với nhiều chủng loại màu sắc hấp dẫn.
(Ảnh minh hoạ 8, 9)
Ví dụ: Chủ đề: “Những con vật đáng yêu” ở các góc chơi tôi đã làm những đồ chơi tự tạo từ những phế liệu bằng vải vụn, bông như: Con ếch, con rùa màu xanh, con tôm, con cá…màu đỏ.
Góc hoạt động với đồ vật: Tôi chuẩn bị các mũ múa hình con vật ngộ nghĩnh (Mũ con ếch to, nhỏ màu xanh…) Vòng gậy thể dục, dụng cụ xắc xô, trống lắc… có các màu xanh, đỏ.
Môi trường trong lớp với đầy đủ đồ chơi đẹp mắt, được sắp xếp dưới dạng mở giúp rèn luyện lời nói cho trẻ thuận tiện dễ dàng hơn. Đồ chơi được thay đổi thường xuyên để trẻ thích thú mỗi khi đến trường.
Mảng tường chính của lớp tôi tạo cây xanh bằng xốp hoa màu vàng- lá màu xanh, cố gắng học hỏi đồng nghiệp để tận dụng nguyên phế liệu làm thật đẹp, thu hút sự chú ý của trẻ bằng các hình ảnh có màu sắc hấp dẫn.
Ngoài ra tôi còn khâu những con vật nhồi bông, dây xúc xích các loại, ngang tầm với trẻ. Trẻ có thể lấy chơi một cách thoải mái.
Tôi gợi hỏi: “Cái gì đây?, Con gì đây?, Đây là hoa gì?, Hoa này màu gì?”.
Cố gắng dành chút thời gian trang trí lớp tạo không gian tươi mới, hấp dẫn, lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động từ đó giúp trẻ trở lên nhanh nhẹn, không nhút nhát khi cùng cô và các bạn khám phá các sự vật hiện tượng xung quanh.
(Ảnh minh hoạ 10, 11)
b. Tạo môi trường thiên nhiên ngoài lớp thân thiện, xanh- sạch- an toàn.
Phối hợp với nhà trường, tôi và các cô giáo trong trường đã tạo một sân chơi thoáng mát sạch sẽ gọn gàng, có vườn hoa cây cảnh xanh tốt rực rỡ màu sắc, có vườn rau theo mùa, có góc thiên nhiên ngoài lớp để trẻ tìm hiểu khám phá trải nghiệm các sự vật hiện tượng… Môi trường “xanh, sạch, đẹp” là điều kiện rất tốt để dạy trẻ nhận biết phân biệt màu một cách nhanh, chính xác.
Trẻ được học hỏi, quan sát, khám phá trải nghiệm ngay trên khu vườn của lớp giúp trẻ thêm yêu thiên nhiên, thích thú dạo chơi hào hứng đến lớp. Tôi luôn cùng đồng nghiệp trồng cây xanh, chăm sóc cây xanh tạo không gian sạch sẽ, tươi mát, không khí trong lành, tạo cơ hội cho trẻ có nhiều không gian trải nghiệm, tìm tòi và tự trẻ đưa ra các câu hỏi của chính mình, khi có sự trợ giúp của giáo viên trẻ sẽ nhớ lâu hơn. Điều đó giúp kích thích trí tuệ của trẻ cũng tạo sự hứng thú của trẻ với môi trường lớp học.
Thiết kế những trò chơi phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Tận dụng hành lang trước lớp tạo những đường dích dắc màu đỏ, đường hẹp được trang trí bằng những nét vẽ tạo thành thảm cỏ màu xanh. Kích thích sự hứng thú của trẻ, vừa phát triển vận động cho trẻ đồng thời giúp trẻ phát triển khả năng nhận biết màu sắc. Ngoài ra tôi còn tự tay tạo ra trò chơi thả hình, thả bi từ những chai nhựa, cốc cháo, ống nước cho trẻ chơi, rèn phát triển vận động tinh và kích thích sự nhận biết của trẻ với màu sắc.
Ví dụ: bố mẹ đưa đón trẻ mỗi ngày cũng có thể cùng con chơi những trò chơi do cô tự thiết kế ngay trong hành lang của lớp, tạo sự thích thú cho trẻ, kích thích trẻ trải nghiệm nhiều hơn, trẻ thích đến trường đến lớp hơn.
(Ảnh minh hoạ 12)
4. Biện pháp 4: Thay đổi hình thức trong các hoạt động của trẻ
Đối với trẻ nhà trẻ còn non nớt chưa phát triển toàn diện về tâm sinh lý, dễ nhạy cảm với mọi hoạt động xung quanh, trẻ sẽ dễ bị thu hút bởi những điều mới lạ, sặc sỡ, đẹp mắt. Dựa vào các đặc điểm tâm lý ấy, tôi đã thường xuyên thay đổi các hình thức hoạt động để thu hút sự chú ý của trẻ, giúp trẻ nhanh chóng quên đi sự lạ lẫm mà mau chóng bắt nhịp cùng các bạn.
Hay ví dụ như những hoạt động chuyển tiếp, tôi tổ chức xen kẽ một trò chơi nhỏ hay một bài hát vui nhộn. Trẻ rất thích thú khi được tham gia cùng cô và các bạn.
(Ảnh minh hoạ 13, 14)
Cho trẻ ra sân trường chơi ngoài trời thoáng mát, sạch sẽ với nhiều cây xanh, hít thở không khí trong lành và các trò chơi vận động bổ ích như : Dung dăng dung dẻ, lộn cầu vồng, bóng tròn to, mèo đuổi chuột….
(Ảnh minh hoạ 15, 16)
Tâm lý trẻ nhà trẻ mới ngày đầu đến lớp còn rất bỡ ngỡ và cần nhiều sự quan tâm, âu yếm dỗ dành của cô giáo. Cô cần tạo được sự gần gũi, ấm áp giống như người thân trong gia đình của trẻ, tạo không khí gần gũi giống gia đình. Do vậy tôi nghĩ ngoài những hoạt động học, các con cũng cần có những hoạt động khác ngoài giờ để giúp các cô và các con gần nhau, đồng thời qua đó cũng cung cấp các kiến thức và giáo dục các con kĩ năng sống phù hợp.
Ví dụ: Ngay từ đầu năm học khi trẻ mới đến lớp tôi thường xuyên tổ chức các buổi vui chơi ngoài trời cho các con. Không ngại việc các con còn nhỏ gặp người quen dễ khóc, hay khó khăn trong việc đưa các con ra ngoài trời. Tôi và đồng nghiệp đã tạo được nhiều buổi dã ngoại cho các con xuống khu vui chơi của trường, thăm vườn rau, cây xanh. Khi ra sân vừa đi vừa hát, hay đọc thơ cùng cô... dần dần trẻ sẽ bị thu hút bởi không gian bên ngoài nhiều màu sắc trẻ sẽ không khóc nữa mà dần hòa mình vào với không khí vui vẻ của lớp học.
(Ảnh minh hoạ 17, 18)
5. Biện pháp 5 : Đồng hành cùng phụ huynh
Ngay từ buổi đầu năm học tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu và trao đổi với hội đồng nhà trường khi thực hiện công tác phổ cập và công tác tuyển sinh, nên lồng ghép nội dung tư vấn cho phụ huynh về việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ trước khi trẻ đến trường để trẻ nhanh thích nghi với môi trường lớp học. Điều này là vô cùng cần thiết, nó không chỉ đơn giản là cho trẻ đi từ nhà đến trường mà ở đây trẻ được học những điều hay lẽ phải, được gặp gỡ tiếp xúc với bạn bè thầy cô.
* Về phía phụ huynh
- Để đạt đến những mặt tích cực đó, bố mẹ cần có kế hoạch chuẩn bị tâm lý cho trẻ chu đáo, bố mẹ nên cho trẻ xem những video về các hoạt động diễn ra trong trường để trẻ có sự hình dung chủ động, không rơi vào cảm giác bối rối với hiện thực ngày đầu tiên tới trường.
Ví dụ: phụ huynh có thể cùng trẻ thực hiện một chuyến thăm quan đến ngôi trường tương lai của trẻ.
- Ngoài ra bố mẹ cần có những cuộc nói chuyện với trẻ xoay quanh nội dung:
+ Trường học là nơi như thế nào?
+ Thầy cô là ai? sẽ cùng con làm gì?
+ Tại sao con nên đến trường học?
Phụ huynh hãy cố gắng lựa chọn những nội dung tích cực để đưa ra đáp án cho trẻ. Chính những điều hấp dẫn và phù hợp với mong muốn và hứng thú của trẻ mà phụ huynh đã mô tả ở trường sẽ góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm thế sẵn sàng đến trường cho trẻ.
(Ảnh minh hoạ 19)
* Về phía giáo viên
- Ngay từ ngày đầu nhận lớp tôi đã lập trang zalo của nhóm lớp mình để chủ động liên lạc với phụ huynh cũng như trao đổi tình hình của trẻ ở lớp. Từ đó tôi có thể nắm bắt được thói quen, đặc điểm sinh lý, sức khỏe của trẻ để có biện pháp chăm sóc giáo dụng phù hợp. Thông qua đó tôi cũng phổ biến luôn nội qui của trường của nhóm lớp mình cho phụ huynh nắm bắt như vậy sẽ thuận tiện trong việc phụ huynh phối hợp cùng cô chăm sóc giáo dục trẻ.
Ví dụ: - Khi trẻ đến lớp tôi chào phụ huynh, chào trẻ và khi đó phụ huynh cũng nhắc con mình chào cô?
- Khi tôi đưa một món đồ chơi mà trẻ thích, tôi thường nói " cô cho con này" " con xin cô chưa" "con cảm ơn cô đi" sau thời gian áp dụng phương pháp này , kết quả mà tôi thu được là trẻ lớp tôi đã quen dần môi trường lớp học và trẻ hợp tác cùng cô biết thực hiện theo yêu cầu của cô. Yêu cô, quí bạn thích đến trường lớp hơn.
(Ảnh minh hoạ 20)
6. Kết quả đạt được
Trước khi chưa thực hiện các biện pháp này, trẻ ra lớp đầu năm còn quấy khóc nhiều khiến phụ huynh lo lắng, trẻ lâu làm quen được với môi trường nhóm lớp. Nhưng trong quá trình tìm tòi suy nghĩ và thực hiện những biện pháp tại nhóm lớp mình thì đã mang lại nhiều thành quả đáng khích lệ.
a. Đối với trẻ
- Hầu hết trẻ vui vẻ khi đến lớp.
- Trẻ đến lớp biết chào cô, chào bố mẹ, tự cất đồ dùng cá nhân vào nơi qui định. Trẻ còn tự đi vào lớp phấn khởi, vui vẻ.
- Trẻ có khả năng giao tiếp mạnh dạn hơn, thích được đi học hơn.
- Biết thể hiện tình cảm giao lưu giữa bạn bè, giữa trẻ và cô, hứng thú trong khi chơi và có ý thức giữ gìn đồ dùng đồ chơi, biết chia sẻ vui chơi đoàn kết cùng bạn.
Bảng khảo sát thực nghiệm trên số trẻ của lớp
Nội dung khảo sát
|
Trước khi áp dụng
|
Sau khi áp dụng
|
|
Đạt
|
Chưa đạt
|
Đạt
|
Chưa đạt
|
Trẻ đi học không khóc
|
6 trẻ = 20%
|
24 trẻ = 80%
|
27 trẻ = 90%
|
3 trẻ = 10%
|
Trẻ thích trò chuyện cùng cô và các bạn
|
12 trẻ = 40%
|
18 trẻ = 60%
|
30 trẻ = 100%
|
0
|
Trẻ có nề nếp, hứng thú với các hoạt động
|
9 trẻ = 30%
|
21 trẻ = 70%
|
30 trẻ = 100%
|
0
|
Nhìn vào bảng so sánh đối chứng trên ta thấy được kết quả rất rõ rệt. Vào tháng 09/ 2022 khi chưa có các biện pháp giúp trẻ sớm thích nghi với trường mầm non thì kết quả còn rất thấp nhưng sau khi áp dụng các biện pháp thực hiện thì kết quả đạt được tăng lên rõ rệt.
b. Đối với giáo viên
- Trang trí, tạo môi trường với nhiều góc mở cuốn hút trẻ tham gia vào các hoạt động. Tổ chức các giờ học linh hoạt hơn, nhanh nhẹn trong mọi hoạt động.
- Có kỹ năng tổ chức các hoạt động dạy trẻ. Sưu tầm được thêm nhiều trò chơi, tạo cách cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động. Hiểu được nguyên nhân vì sao trẻ ngại đến trường thông qua đó hiểu được tâm lý của trẻ.
- Có ý thức trách nhiệm cao trong công việc được phân công, thể hiện tình thương yêu đối với trẻ. Tạo được lòng tin đối với phụ huynh và cộng đồng.
c. Đối với phụ huynh
- Phụ huynh đã dành nhiều thời gian quan tâm, lắng nghe, trò chuyện, chơi cùng các con. Luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ con trong sinh hoạt hàng ngày để trẻ tự tin không còn rụt rè, nhút nhát. Luôn tham gia các phong trào của lớp, của trường.
- Phụ huynh tuyệt đối tin tưởng giáo viên, yên tâm gửi con tới trường, luôn gần gũi động viên giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Có thể nói trường mầm non là ngôi nhà thứ 2 đong đầy tình yêu thương dành cho trẻ, nơi mà phụ huynh yên tâm gửi trọn niềm tin khi gửi gắm con em mình.
7. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Qua việc giúp trẻ 24-36 tháng tuổi sớm thích nghi với trường lớp mầm non với một số biện pháp và kết quả đạt được, bản thân tôi rút ra được những điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến như sau:
Giáo viên phải có năng lực sư phạm, yêu nghề, mến trẻ. Luôn là người “mẹ hiền” gần gũi, nhẹ nhàng với trẻ. Phải kiên trì, bền bỉ trong việc dỗ dành, tạo hứng thú cho trẻ. Yêu thương, gần gũi trẻ.
Biết cách tạo môi trường trong và ngoài lớp “Xanh – an toàn - thân thiện” . Tạo nhiều cơ hội để kích thích niềm say mê tìm tòi khám phá ở trẻ. Tạo góc mở để trẻ được chơi và luyện tập.
Thường xuyên gần gũi trẻ, quan sát, trò chuyện với trẻ để trẻ cảm nhận được cô giống như người thân của mình từ đó trẻ sẽ an tâm hơn và bớt nhớ nhà hơn.
Sử dụng các đồ dùng trực quan sinh động mang màu đặc trưng cơ bản của tuổi nhà trẻ. Khi đặt câu hỏi cần ngắn gọn và ở dạng câu hỏi mở để phát huy tính tích cực chủ động của trẻ, cho trẻ được nói nhiều.
Thực hiện phương châm “ Học mà chơi, chơi mà học ” , lấy trẻ làm “ Trung tâm ” cho mọi hoạt động.
Cần có sự phối hợp giữa phụ huynh với cô giáo để thống nhất phương pháp rèn luyện nề nếp cũng như chăm sóc giáo dục trẻ. Tạo cho trẻ tâm thế thích đến trường đến lớp.
C . KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận
Việc giúp trẻ thích nghi với môi trường ở trường mầm non là cơ sở tốt giúp trẻ hòa nhập và phát triển nhân cách con người. Đối với trẻ thơ một trong những nhiệm vụ trọng tâm giáo dục nhân cách của trẻ là hình thành ở trẻ tình yêu thiên nhiên, yêu con người cuộc sống. Ở đó trẻ biết thích nghi với môi trường mới, luôn có thái độ tích cực tham gia các hoạt động ở trường mầm non.
Qua việc áp dụng và thực hiện các biện pháp mới tôi thấy trẻ thích chơi hơn, sáng tạo hơn, linh động và nhanh nhẹn hơn. Thay cho sự nhàm chán khi trẻ đến lớp quấy khóc cả buổi, không chịu ăn, không chịu ngủ... thì giờ đây trẻ đã hứng thú hơn, tập trung hơn, khéo léo chơi những đồ chơi trong lớp, đoàn kết cùng bạn bè. Từ đó cũng giúp bản thân giáo viên thêm phần khéo léo trong công tác tuyên truyền huy động trẻ ra lớp, sáng tạo trong việc tìm ra các giải pháp để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
II. Khuyến nghị
Tôi rất mong mình được học hỏi nhiều hơn nữa để nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Tôi cũng xin đề xuất một số ý kiến như sau:
1.Cấp trên
Đề nghị Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện tham mưu với các cấp, các ngành quan tâm hơn nữa đến chế độ cho giáo viên mầm non để những giáo viên mầm non thực sự yên tâm công tác và cống hiến nhiều hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục mầm non.
Mở các buổi chuyên đề nâng cao kỹ năng tổ chức các hoạt động để giáo viên được bồi dưỡng thêm về chuyên môn nghiệp vụ.
2. Cấp trường
Nhà trường tham mưu với các cấp lãnh xây dựng tạo thêm khuôn viên có nhiều cây hoa, cây cảnh, vườn cây ăn quả để giúp trẻ hoạt động đạt được kết quả tốt hơn.
Trên đây tôi đã trình bày “ Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi sớm thích nghi với trường lớp mầm non ” mà tôi đã áp dụng thời gian qua. Kính mong các cấp lãnh đạo giúp đỡ và góp ý kiến xây dựng để bản sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. Đồng thời có biện pháp thích hợp nhất để đạt hiệu
quả cao trong giáo dục mầm non. Rất mong sự góp ý kiến của hội đồng chấm sáng kiến để tôi có thêm nhiều kinh nghiệm quý báu trong công tác giảng dạy của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!